Gia đình Nguyên_Quân

Vợ của Quân là con gái sĩ tộc họ Đỗ ở Kinh Triệu, sử cũ chép bà có sáu con trai, còn văn bia chép bảy con trai, sáu con gái. Đỗ thị mất ngày 21 tháng 7 ÂL năm Thiên Bình thứ 2 (tức 2 tháng 9 năm 535), đến ngày 21 tháng 7 ÂL năm Vũ Định thứ 2 (tức 22 tháng 9 năm 544), được hợp táng với Quân, bên cạnh mộ của Nguyên Hiển, phía tây Nghiệp Thành.

Sử cũ chỉ chép tên ba con trai của Quân:

  • Con trưởng là Nguyên Hãn Chi, tính thô kệch, từ nhỏ có sức mạnh. Ban đầu Hãn Chi được làm Định Châu Bình bắc phủ Trung binh tham quân, dần thăng đến Thượng thư hữu trung binh lang. Nhờ tham gia nổi dậy ở Hà Lương, Hãn Chi được ban tước Đông A hầu. Khi Hiếu Trang đế tính kế giết Nhĩ Chu Vinh, Hãn Chi bí mật trình bày tình hình của Vinh. Vào lúc Hiếu Trang đế ra tay, Hãn Chi xin được đứng hầu. Sau khi đế giết được Nhĩ Chu VinhNguyên Thiên Mục, bá quan chúc mừng, chỉ có Hãn Chi được đế hỏi han úy lạo. Nhĩ Chu Triệu phá Lạc Dương, giết Hiếu Trang đế, Hãn Chi chạy sang Hà Bắc, đi theo Cao Hoan. Thời Hậu phế đế Nguyên Lãng, Hãn Chi được trừ chức Tán kỵ thường thị, Đại thừa tướng Hữu trưởng sử. Đầu thời Hiếu Vũ đế, Hãn Chi được phong tước cũ của cha là An Khang huyện Khai quốc bá, trừ chức Phủ quân tướng quân, Bắc Từ Châu thứ sử. Hãn Chi lên đường đến châu, gặp đúng lúc Phàn Tử Hộc nổi loạn ở Hà Khâu, thành ra giữa đường bị hại. Triều đình xét Hãn Chi chết vì việc nước, truy tặng làm Sứ trì tiết, Đô đốc Định, Ân 2 châu chư quân sự, Phiếu kỵ đại tướng quân, Tư không công, Định Châu thứ sử, thụy là Văn Trinh.
  • Em Hãn Chi là Khánh Loan, cuối thời Đông Ngụy Hiếu Tĩnh đế làm đến tư đồ Tư nghị tham quân.
  • Em Khánh Loan là Khánh Triết, làm đến Tư nông thiếu khanh, được tặng chức Trung quân tướng quân, Tế Châu thứ sử.